u cầu hệ thống của Windows XP Home và Professional như sau:[31] Tối thiểu Khuyến cáo Bộ xử lý 233 MHz1 300 MHz trở lên Bộ nhớ 64 MB RAM2 128 MB RAM trở lên Màn hình Super VGA (800 x 600) trở lên Dung lượng ổ cứng trống 1,5 GB trở lên (thêm 1,8 GB trong SP2[32] và 900 MB nữa trong SP3[33]) Ổ đĩa Ổ CD-ROM hoặc ổ DVD Thiết bị ngõ nhập Bàn phím. Thiết bị trỏ là Microsoft Mouse hoặc tương thích Âm thanh Cạc âm thanh. Loa hoặc headphone
Chú giải 1: Mặc dù đây là tốc độ bộ xử lý tối thiểu mà Microsoft đưa ra để chạy Windows XP, vẫn có thể cài đặt và chạy hệ điều hành trên các bộ xử lý IA-32 cũ hơn như Pentium không có bộ lệnh MMX hoặc SSE[34].
Chú giải 2: "Với nhiều công việc như duyệt Web, thư điện tử, và các hoạt động khác, 64 MB RAM sẽ cung cấp trải nghiệm người dùng tương đương hoặc cao hơn Windows Me chạy trên cùng phần cứng"[35]. [sửa] Các service pack
Microsoft thỉnh thoảng phát hành các service pack dành cho hệ điều hành Windows cũng hãng để sửa các lỗi và thêm tính năng. Mỗi service pack là một gói lớn gồm tất cả các service pack trước đó cùng với những bản vá, do đó chỉ cần cài đặt những service pack mới nhất[36]. Bạn cũng không cần phải gỡ bỏ các service pack cũ hơn trước khi cài một bản service pack mới.
Các chi tiết về service pack phía dưới chỉ dùng cho phiên bản 32-bit. Windows XP Professional x64 Edition dựa trên Windows Server 2003 Service Pack 1 và đã được gọi là "SP1" trong thuộc tính hệ thống ngay bản phát hành đầu tiên. Nó được cập nhật cùng bản service pack lẫn vá khẩn cấp chung với phiên bản x64 của Windows Server 2003. [sửa] Service Pack 1 Set Program Access and Defaults được bổ sung trong Service Pack 1.
Service Pack 1 (SP1) dành cho Windows XP được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Nó có các bản sửa lỗi bảo mật hậu-RTM và bản sửa lỗi khẩn cấp, các cập nhật tương thích, hỗ trợ tùy chọn .NET Framework, kích hoạt các công nghệ dành cho thiết bị mới như máy tính bảng, và một phiên bản Windows Messenger 4.7 mới. Tính năng mới đáng chú ý nhất là hỗ trợ USB 2.0 và tiện ích Set Program Access and Defaults nhắm đến những sản phẩm ẩn nằm ở giữa. Người dùng có thể điều khiển ứng dụng mặc định sẽ sử dụng cho các hoạt động như lướt web và tin nhắn nhanh, cũng như ẩn truy cập đến một số chương trình đóng gói của Microsoft. Tiện ích này lần đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành Windows 2000 Service Pack 3. Bản Service Pack này mặc định hỗ trợ SATA và ổ cứng có dung lượng hơn 137GB (hỗ trợ LBA). Máy ảo Java của Microsoft, không có trong phiên bản RTM, đã xuất hiện trong bản Service Pack này[37]. Sự hỗ trợ cho IPv6 cũng được ra mắt trong Service Pack này.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2003, Microsoft phát hành Service Pack 1a (SP1a). Lần phát hành này bỏ đi máy ảo Java của Microsoft do kết quả vụ kiện với Sun Microsystems[38]. [sửa] Service Pack 2 Windows Security Center được bổ sung trong Service Pack 2.
Service Pack 2 (SP2) (tên mã "Springboard") được phát hành vào ngày 6 tháng 4 năm 2004 sau một vài lần trì hoãn, tập trung vào tính bảo mật[39]. Không giống như các service pack khác, SP2 bổ sung nhiều chức năng mới cho Windows XP, trong đó có tường lửa nâng cao, tăng cường hỗ trợ Wi-Fi, như tương thích với mã hóa WPA, với tiện ích thuật sĩ, trình khóa quảng cáo popup dành cho Internet Explorer 6, và hỗ trợ Bluetooth. Màn hình chào mừng mới xuất hiện trong quá trình khởi động nhân đã bỏ các phụ đề "Professional", "Home Edition" và "Embedded" vì Microsoft đã giới thiệu thêm các phiên bản Windows XP khác trước khi phát hành SP2. Thanh đang tải màu xanh lá cây trong Home Edition và màu vàng trong Embedded được thay bằng thanh màu xanh, như trong bản Professional và các phiên bản khác của Windows XP, như vậy màn hình khởi động của tất cả các phiên bản hệ điều hành đã hoàn toàn giống nhau. Màu sắc ở những chỗ khác, như Control Panel và các công cụ Help and Support, vẫn giữ nguyên như trước.
Service Pack 2 cũng thêm các cải tiến bảo mật mới, bao gồm chỉnh sửa lớn đối với trình tường lửa đi kèm được đổi tên thành Windows Firewall và đã được kích hoạt mặc định, Data Execution Prevention, hỗ trợ phần cứng tốt hơn trong NX bit có thể ngăn được một số dạng tấn công tràn bộ đệm. Ngoài ra, hỗ trợ socket thô cũng bị loại bỏ (để hạn chế thiệt hại do máy tính ma tạo ra). Hơn thế, bản service pack này đã cải tiến một số tính năng bảo mật cho email và duyệt web. Windows XP Service Pack 2 đưa vào Windows Security Center, hiển thị tổng quan tình trạng bảo mật của hệ thống, trong đó có tình trạng của phần mềm diệt virus, Windows Update, và Windows Firewall mới. Các ứng dụng diệt virus và tường lửa của bên thứ ba có thể giao tiếp với Security Center mới này[40].
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, Microsoft thông báo một cập nhật nhỏ cho Service Pack 2, có tên Service Pack 2c (SP2c)[41]. Bản cập nhật này sửa vấn đề có quá ít khóa sản phẩm cho Windows XP. Bản cập nhật này chỉ dành cho các nhà xây dựng hệ thống từ nhà phân phối của họ cho Windows XP Professional và Windows XP Professional N. SP2c phát hành vào tháng 9 năm 2007[42]. [sửa] Service Pack 3
Windows XP Service Pack 3 (SP3) được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 21 tháng 4 năm 2008 và cho công chúng thông qua Microsoft Download Center và Windows Update vào ngày 6 tháng 5 năm 2008[43][44][45][46].
Bộ service pack này bắt đầu tự động yêu cầu người dùng cập nhật thông qua Automatic Update vào ngày 10 tháng 7 năm 2008[47]. Microsoft đã đăng một bản tổng quan về các tính năng trong đó liệt kê chi tiết các tính năng mới có thể tải độc lập như các bản cập nhật cho Windows XP, cũng như các tính năng backporting từ Windows Vista[48]. Trong SP3, có tổng cộng 1.174 lỗi được sửa[49]. Service Pack 3 có thể cài đặt trên hệ thống bằng Internet Explorer 6 hoặc 7, và Windows Media Player phiên bản 9 trở lên[50]. Internet Explorer 7 không đi kèm trong SP3[51].